Nhân khẩu học Thế hệ Z

Độ tuổi trung bình theo quốc gia tính theo năm trong năm 2017 (UN). Sự phình ra của giới trẻ là điều hiển nhiên ở các vùng Đông Nam Á, Trung Đông, Trung Mỹ và Châu Phi.

Châu Phi

Các dự báo thống kê từ Liên Hiệp Quốc năm 2019 cho thấy, đến năm 2020, người dân Nigeria sẽ có độ tuổi trung bình là 15,2; Mali 16,3; Chad 16,6; Somalia, Uganda và Angola tất cả là 16,7; Cộng hòa Dân chủ Congo 17,0; Burundi 17.3; Mozambique và cả Zambia là 17.6. (Điều này có nghĩa là hơn một nửa dân số của họ đã được sinh ra trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.) Đây là những quốc gia có độ tuổi trung bình trẻ nhất thế giới. Trong khi dân số bùng nổ có thể tạo ra sự tăng trưởng kinh tế đáng kể, nếu nhu cầu về y tế, giáo dục và kinh tế không được đáp ứng, sẽ có tình trạng thất nghiệp kinh niên ở thanh niên, năng suất thấp và bất ổn xã hội. Đầu tư vào vốn con người là rất quan trọng.[33]

Châu Á

Tháp dân số của Trung Quốc năm 2016.

Tỷ lệ sinh của Trung Quốc giảm từ 5,91 trẻ em trên một phụ nữ vào năm 1967 xuống còn 1,6 vào năm 2012. Chính sách một con là một yếu tố đằng sau sự phát triển này. Theo Chính phủ Trung ương Trung Quốc, chính sách một con đã ngăn chặn khoảng 400 triệu ca sinh. Các chuyên gia tiếp tục tranh luận về con số này, tuy nhiên, một số ý kiến ​​cho rằng mức sinh giảm như vậy là điển hình cho một quốc gia công nghiệp hóa nhanh chóng trong khi những người khác tin rằng nó thực sự đẩy nhanh quá trình lão hóa. Theo nhà nhân khẩu học Zhen Bin Wen thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, lực lượng lao động của Trung Quốc sẽ đạt đỉnh vào năm 2015. Gần 7% dân số Trung Quốc từ 65 tuổi trở lên vào năm 2000, một điểm chuẩn mà Liên Hiệp Quốc xem là dân số đang già đi. Trung Quốc trên thực tế đang già đi khá nhanh. Số liệu của Liên Hợp Quốc cho thấy tỷ lệ người Trung Quốc từ 60 tuổi trở lên tăng 3,8% từ năm 2000 đến 2010, cao hơn mức trung bình toàn cầu 3% từ năm 1950 đến năm 2010. Do đó, Trung Quốc là một trong những quốc gia đang phát triển có dân số già. Nền kinh tế phát triển nhanh chóng và định hướng xuất khẩu của quốc gia sẽ chậm lại, vì lợi thế của lao động dồi dào và giá rẻ mất dần. Tuổi thọ ở Trung Quốc từ 43 vào năm 1960 đã tăng lên 3 tuổi vào năm 2010, nhờ cải thiện mức sống, dinh dưỡng tốt hơn và tiếp cận với chăm sóc sức khỏe và giáo dục.[34]

Do lý tưởng văn hóa, chính sách của chính phủ và y học hiện đại, đã có sự mất cân bằng giới tính nghiêm trọng ở Trung Quốc và Ấn Độ. Theo Liên Hợp Quốc, năm 2018, có 112 nam giới tuổi từ 15 đến 29 trên 100 nữ trong độ tuổi đó. Con số đó ở Ấn Độ là 111. Trung Quốc có tổng cộng 34 triệu nam giới thừa và Ấn Độ 37 triệu người, nhiều hơn toàn bộ dân số Malaysia. Cộng lại, Trung Quốc và Ấn Độ có đến 50 triệu nam giới dư thừa dưới 20 tuổi. Sự khác biệt này gây ra “dịch cô đơn”, nạn buôn người (từ những nơi khác ở châu Á, như Campuchia và Việt Nam), và mại dâm, trong số các vấn đề xã hội khác.[35]

Giống như Liên minh châu Âu (và không giống như Hoa Kỳ), Nhật Bản có dân số giảm. Cùng với tuổi thọ cực kỳ dài (85 tuổi đối với nữ và 78 đối với nam, tính đến năm 2005) và là một trong những nước có mức sinh thấp nhất trên thế giới, điều này có nghĩa là vào năm 2050, 30% người Nhật sẽ ở độ tuổi trên 60. Trong khi chính phủ đã đưa ra nhiều ưu đãi khác nhau để mọi người sinh thêm con, thì không thể hoàn vốn đầu tư cho đến những năm 2030, khi những đứa trẻ sinh ra vào đầu những năm 2000 trở thành lực lượng lao động. (Về mặt chính trị, việc di dân không phổ biến ở đất nước này.)[36] Theo số liệu chính thức, số lượng cá nhân dưới 15 tuổi ở Nhật Bản chiếm 13,6% dân số năm 2007 và được dự đoán sẽ giảm xuống còn 12,3% vào năm 2015, hoặc khoảng một nửa so với người già. Năm 2007 là năm thứ 26 liên tiếp mà số người dưới 15 tuổi giảm ở Nhật Bản[37]. Tỷ lệ sinh của Nhật Bản đã giảm từ mức thay thế gần 2.1, vào đầu những năm 1970 xuống còn 1.26 vào năm 2005[38]. Các quan chức chính phủ ước tính rằng dân số Nhật Bản sẽ giảm 30% vào những năm 2050, từ 127 triệu xuống dưới 90 triệu.[37]

Tỷ lệ sinh của Singapore đã giảm xuống dưới mức thay thế 2.1 kể từ những năm 1980 trước khi ổn định trong những năm 2000 và 2010[39]. (Nó đạt 1,14 vào năm 2018 và là thấp nhất kể từ năm 2010 cũng như là một trong những mức thấp nhất trên thế giới.)[40] Các ưu đãi của chính phủ như tiền thưởng cho em bé đã được chứng minh là không đủ để tăng tỷ lệ sinh. Những gì mà Singapore trải qua cũng tương tự tình trạng này ở Nhật Bản và Hàn Quốc.[39]

  • Tháp dân số của Ấn Độ, Nhật Bản và Singapore năm 2016

Châu Âu

Từ khoảng năm 1750 đến 1950, Tây Âu đã chuyển từ có tỷ lệ sinh và tử cao sang tỷ lệ sinh và tử thấp. Vào cuối những năm 1960 hoặc 1970, một phụ nữ trung bình có ít hơn hai con và mặc dù ban đầu các nhà nhân khẩu học mong đợi một "sự điều chỉnh", sự phục hồi như vậy không bao giờ xảy ra. Mặc dù có sự tăng lên trong tổng tỷ suất sinh của một số quốc gia châu Âu vào cuối thế kỷ XX (những năm 1980 và 1990), đặc biệt là Pháp và Scandinavia, họ không bao giờ trở lại mức thay thế; sự tăng lên này phần lớn là do những người phụ nữ lớn tuổi nhận ra ước mơ làm mẹ của họ. Lúc đầu, việc sinh sản giảm là do đô thị hóa và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm, điều này làm giảm lợi ích và tăng chi phí nuôi con. Nói cách khác, việc đầu tư nhiều hơn vào con cái trở nên hợp lý hơn, như nhà kinh tế Gary Becker lập luận. (Đây là quá trình chuyển đổi nhân khẩu học đầu tiên.) Mức sinh giảm sau đó đến từ những thay đổi về thái độ. Đến thập niên 1960, mọi người bắt đầu chuyển từ các giá trị truyền thống và cộng đồng sang các triển vọng cá nhân và biểu hiện rõ hơn do tiếp cận và khao khát giáo dục bậc cao hơn, và đến việc truyền bá các giá trị lối sống chỉ được thực hiện bởi một nhóm văn hóa thiểu số. (Đây là lần chuyển đổi nhân khẩu học thứ hai.) Mặc dù những thay đổi văn hóa nhất thời của thập niên 1960 đã chững lại vào những năm 1990, nhưng môi trường văn hóa xã hội của thế kỷ XX cũng đã hoàn toàn khác so với những năm 1950. Những thay đổi này về giá trị đã có các tác động lớn đến khả năng sinh sản, cái mà đã gắn kết chính nó trong các nhóm nhân khẩu học tiếp theo. Các quốc gia thành viên của Cộng đồng châu Âu đã chứng kiến ​​sự gia tăng dần không chỉ trong việc ly hôn và sinh con ngoài giá thú giữa năm 1960 và 1985 mà còn sự sụt giảm trong tỷ lệ sinh. Năm 1981, một cuộc khảo sát ở các quốc gia công nghiệp hóa đã phát hiện ra rằng trong khi hơn một nửa số người từ 65 tuổi trở lên nghĩ rằng phụ nữ đều cần phải có con, thì chỉ có 35% những người trong độ tuổi từ 15 đến 24 (nhóm những người trẻ thế hệ Baby Boomers (thế hệ Bùng nổ trẻ sơ sinh) và nhóm cuối thế hệ X) đồng ý với điều đó.[41]

Tháp dân số của Liên minh Châu Âu năm 2016

Đầu những năm 2000, Pháp và Scandinavia vẫn giữ được tỷ lệ sinh cao so với các nước phát triển khác, đặc biệt là Nam Âu và Đông Á. Trước hết, có vẻ như điều này có thể là do các giá trị và chính sách tiến bộ xã hội của họ, tức là giúp phụ nữ dễ dàng theo đuổi cả sự nghiệp và ước mơ sinh con. Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ lưỡng hơn có thể thấy không thể bảo vệ được lập luận "nữ quyền là chủ nghĩa tự sinh mới", vì một mặt thì có những nước tiến bộ xã hội với tỷ lệ sinh thấp như Áo và Canada, mặt khác là các nước truyền thống, bảo thủ hơn với tỷ lệ sinh cao như Ireland và Hoa Kỳ.[41]

Vào đầu thế kỷ 21, châu Âu có sự già hóa dân số với tốc độ chưa từng thấy. Người ta ước tính rằng vào năm 2050, 40% người châu Âu sẽ ở độ tuổi trên 60. Vấn đề này đặc biệt nghiêm trọng ở phương Đông trong khi ở phương Tây, nó được giảm bớt do sự nhập cư quốc tế. Ngoài ra, ngày càng nhiều trẻ em sinh ra ở châu Âu bởi cha mẹ không phải là người châu Âu. Bởi vì con cái của những người nhập cư ở châu Âu có xu hướng tôn giáo như họ, điều này có thể làm chậm sự suy giảm của tôn giáo (hoặc sự phát triển của chủ nghĩa thế tục) ở lục địa này cùng với sự phát triển của thế kỷ 21[42]. Tại Vương quốc Anh, số lượng cư dân sinh ra ở nước ngoài chiếm 6% dân số vào năm 1991. Di dân sau đó đã tăng và không giảm kể từ năm 2018. Các nghiên cứu của các nhà nhân khẩu học và các nhà khoa học chính trị Eric Kaufmann, Roger Eatwell và Matthew Goodwin cho rằng một sự thay đổi nhân khẩu học nhanh như vậy là một trong những lý do chính đằng sau phản ứng dữ dội của công chúng theo hình thức dân chủ chủ nghĩa dân tộc nổi dậy chống lại các nền dân chủ tự do giàu có, ví dụ như là sự kiện trưng cầu dân ý Brexit năm 2016.[43]

Ý là một quốc gia có vấn đề dân số già đặc biệt nghiêm trọng. Tỷ lệ sinh giảm từ khoảng 4 trong thập niên 1960 xuống còn 1,2 vào những năm 2010. Điều này không phải vì người trẻ Ý không muốn sinh con. Hoàn toàn ngược lại, có nhiều con là một lý tưởng của họ. Nhưng nền kinh tế của họ đã rất ổn định kể từ cuộc Đại suy thoái năm 2007 - 2008, với tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên ở mức đáng kinh ngạc - 35% vào năm 2019. Nhiều người Ý đã chuyển ra nước ngoài - 150.000 người trong năm 2018 - và rất nhiều người trẻ tuổi theo đuổi các cơ hội kinh tế và giáo dục. Với sự sụt giảm số lượng sinh mỗi năm, dân số Ý dự kiến ​​sẽ giảm trong năm năm tới. Hơn nữa, thế hệ Baby Boomers đang nghỉ hưu với số lượng lớn, và số lượng của họ làm lu mờ những người trẻ chăm sóc họ. Chỉ có Nhật Bản có cấu trúc tuổi nghiêng nhiều hơn về phía người già. Một giải pháp cho vấn đề này là khuyến khích sinh sản, như Pháp đã làm, bằng cách đầu tư vào việc để số ngày nghỉ của phụ huynh dài hơn, vào nhà trẻ và miễn thuế cho cha mẹ. Tính đến năm 2019, Pháp có dân số xấp xỉ với Ý nhưng số lượng sinh nhiều hơn 65%. Một giải pháp khác là nhập cư, đã giảm bớt sự suy giảm, nhưng sẽ chẳng đến đâu nếu không có các phản ứng chính trị.[44]

Hy Lạp cũng gặp vấn đề nhân khẩu học nghiêm trọng khi nhiều người trẻ tuổi rời khỏi đất nước để tìm kiếm cơ hội tốt hơn ở nơi khác. Việc chảy máu chất xám và dân số già đi nhanh chóng có thể gây ra thảm họa cho đất nước này.[45]

Nga có tỷ lệ sinh giảm và dân số giảm mặc dù có nền kinh tế cải thiện sau khi Liên Xô sụp đổ. Theo Liên Hợp Quốc, dân số Nga có thể giảm tới 1/3 vào năm 2050. Các nhà thống kê của chính phủ Nga ước tính vào năm 2005 rằng một cậu bé sinh ra ở đất nước họ năm đó sẽ có cơ hội đón sinh nhật lần thứ 60 của mình do nhiều vấn đề liên quan đến lối sống (như nghiện rượu). Khoảng cách về tuổi thọ giữa phương Tây và Nga bắt đầu trở nên đáng chú ý trong thập niên 1960[46]. Dân số Nga giảm 6% từ giữa những năm 1990 đến đầu những năm 2010.[47]

Từ năm 1990 đến 2019, Iceland có ​​dân số tăng 40,7%, Na Uy tăng 25,9%, Thụy Điển tăng 20,0%, Đan Mạch 13,1%, đảo Greenland 0,8%, Phần Lan 10,9%, Quần đảo Faroe 7,5% và Quần đảo Åland 22,9%.[48]

  • Tháp dân số của Pháp, Hy Lạp và Nga năm 2016

Bắc Mỹ

Dữ liệu từ Thống kê Canada được công bố năm 2017 cho thấy Thế hệ Z chiếm 17,6% dân số Canada.[49] Theo Thống kê Canada, từ năm 1980 đến năm 2009, tần suất hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS) giảm từ 1 phần nghìn ca sống xuống còn 0,3, giảm 71%. Dữ liệu từ Liên Hợp Quốc cho thấy tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh trong khoảng từ 28 đến 364 ngày tuổi đã giảm 64% và trẻ mới biết đi dưới 5 tuổi đã giảm 9,7% từ năm 1980 đến 2015. Theo thống kê Canada, số hộ gia đình có cả hai ông bà và cháu vẫn hiếm nhưng đã phát triển. Năm 2011, 5% trẻ em Canada dưới 10 tuổi sống với ông bà, tăng từ 3,3% so với thập kỷ trước. Điều này một phần vì cha mẹ người Canada ở đầu thế kỷ 21 không thể (hoặc nghĩ rằng họ không thể) đủ khả năng chăm sóc con cái và thường phải làm việc nhiều giờ hoặc thay ca không thường xuyên. Trong khi đó, nhiều ông bà đã phải cố gắng để theo kịp những đứa cháu năng động của họ một cách thường xuyên do vấn đề tuổi tác. Giữa ông bà và cha mẹ, luôn có các nguồn gốc mâu thuẫn tiềm tàng như chế độ ăn uống của trẻ em, lịch trình giấc ngủ của chúng, cách kỷ luật chúng và cách chúng có thể sử dụng các thiết bị điện tử. Phụ huynh ngày nay phụ thuộc vào Internet về thông tin hơn cha mẹ của họ, và nhiều người thậm chí còn khuyên họ nên tham gia các lớp học dành cho ông bà. Bởi vì Millennials và các thành viên của Thế hệ X có xu hướng sinh ít con hơn cha mẹ của họ, nên mỗi đứa trẻ thường được ông bà và cha mẹ chú ý nhiều hơn so với các thế hệ trước.[50]

Tại Hoa Kỳ, với sự thúc giục của Tổng thống Lyndon B. Johnson, Quốc hội đã thông qua Đạo luật Di trú và Quốc tịch năm 1965 (còn được gọi là Đạo luật Hart-Celler), bãi bỏ hạn ngạch quốc gia dành cho người nhập cư và thay thế bằng một hệ thống thừa nhận số lượng người cố định mỗi năm dựa trên các phẩm chất như kỹ năng và nhu cầu tị nạn[51]. Trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, hầu hết những người nhập cư vào Hoa Kỳ đến từ Châu Âu, nhưng vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, Châu Á và Châu Mỹ Latinh đã trở thành nguồn nhập cư hàng đầu cho quốc gia này.[52]

Một báo cáo của nhà nhân khẩu học William Frey thuộc Viện Brookings tuyên bố rằng tại Hoa Kỳ, Millennials là cầu nối giữa phần lớn thế hệ tiền Millennials người da trắng (Thế hệ X và người thế hệ trước họ) và thế hệ hậu Millennials đa dạng hơn (Thế hệ Z và người kế vị của họ)[53]. Thật vậy, bất chấp dòng người nhập cư giảm dần đến Hoa Kỳ sau cuộc Đại suy thoái, Thế hệ Z là thế hệ đa dạng dân tộc nhất từ trước đến trước giờ. 52% thế hệ này là người da trắng, 25% là người Tây Ban Nha, 14% là người da đen và 4% là người châu Á[54]. Khoảng 4% là đa chủng tộc[54], và con số này đã tăng lên nhanh chóng từ năm 2000 đến năm 2010[1]. Cụ thể hơn, số người Mỹ xác định là con lai của người da trắng và da đen đã tăng 134% và lai người da trắng và người châu Á tăng 87%[1]. Có thể so sánh, 44% thế hệ Millennials, 40% thế hệ X và 28% thế hệ Baby Boomers được xác định là không phải người da trắng[55]. Nghiên cứu của Frey cũng cho thấy ở cấp quốc gia, người gốc Tây Ban Nha và người châu Á là những nhóm thiểu số chủng tộc phát triển nhanh nhất ở Hoa Kỳ trong khi số người da trắng dưới 18 tuổi đã giảm từ năm 2000. Sự thay đổi nhân khẩu học này có thể đưa đến một số ảnh hưởng trong xã hội, văn hóa và chính trị trong nhiều thập kỷ tới.[56]

Các thành viên của Thế hệ Z ít có khả năng sinh ra ở nước ngoài hơn Millennials[54]. Thực tế là nhiều người Mỹ Latinh sinh ra ở Mỹ hơn là ở nước ngoài đóng vai trò làm cho làn sóng Thế hệ Z đầu tiên có được giáo dục tốt hơn so với thế hệ trước. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cảnh báo rằng xu hướng này có thể được thay đổi bằng cách thay đổi mô hình nhập cư và các thành viên trẻ hơn của Thế hệ Z chọn con đường giáo dục thay thế[57]. Là một nhóm nhân khẩu học, Thế hệ Z nhỏ hơn thế hệ Baby Boomers và con của họ - Millennials[58]. Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, Thế hệ Z chiếm khoảng 1/4 dân số Hoa Kỳ, tính đến năm 2015[59]. Dữ liệu tạm thời từ Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh cho thấy tỷ lệ sinh của Hoa Kỳ đã giảm xuống dưới mức thay thế của 2.1 kể từ năm 1971. (Đó là 1.765 vào năm 2017.)[60]

Tỷ lệ sinh của Mexico, từng là một trong những mức cao nhất trên thế giới, xấp xỉ ở mức thay thế vào năm 2010, giảm so với gần 7 vào năm 1960. Điều này là do các chính sách kiểm soát sinh sản của chính phủ có từ những năm 1970 đã sử dụng triệt sản trong một đất nước với những hạn chế phá thai nghiêm ngặt trừ ở thủ đô. Vào những năm 2000, khoảng 40% phụ nữ Mexico đã kết hôn đã được triệt sản. Phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động và cơ hội giáo dục được cải thiện cũng đóng một vai trò trong sự phát triển này. Mặc dù số lượng người Mexico mới mỗi năm trong thập niên 2000 tương đương với số lượng từ những năm 1970, tốc độ tăng trưởng đã chậm lại đáng kể. Tuổi trung bình của người Mexico là 28 vào năm 2010, tăng từ 17 vào năm 1980. Có thể so sánh, châu Âu mất một thế kỷ thay vì 30 năm để thực hiện quá trình chuyển đổi nhân khẩu học tương tự. Tuy nhiên, người Mexico sống ở Hoa Kỳ có tỷ lệ sinh cao hơn so với những người Mexico ở nước cũ, và điều này có nghĩa là số người di sản Mexico sẽ tiếp tục phát triển ở phía bắc biên giới. Trên thực tế, vào đầu những năm 2000, đã có sự di cư hợp pháp đáng kể của Mexico vào Hoa Kỳ, nơi có mức sống và tiền lương cao hơn.[61]

  • Tháp dân số ở Canada, Mỹ và Mexico

Châu Đại Dương

Tháp dân số của Úc năm 2016

Tổng tỷ suất sinh của Úc đã giảm từ trên 3 trong thời kỳ hậu chiến, xuống mức thay thế (2.1) trong những năm 1970 và xuống dưới mức đó vào cuối những năm 2010 (1.74 vào năm 2017.) Tuy nhiên, nhập cư đã bù đắp những ảnh hưởng của tỷ lệ sinh giảm. Trong những năm 2010, trong số các cư dân của Úc, 5% được sinh ra ở Vương quốc Anh, 2,5% từ Trung Quốc, 2,2% từ Ấn Độ và 1,1% từ Philippines. 84% người mới đến trong năm tài chính 2016 là dưới 40 tuổi, so với 54% những người đã ở trong nước. Giống như các quốc gia thân thiện với người nhập cư khác, chẳng hạn như Canada, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, dân số trong độ tuổi lao động của Úc dự kiến ​​sẽ tăng lên đến khoảng năm 2025. Tuy nhiên, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động nghỉ hưu (tỷ lệ phụ thuộc) đã đi từ 8 trong những năm 1970 đến khoảng 4 trong những năm 2010. Nó có thể giảm xuống còn 2 vào những năm 2060, tùy thuộc vào mức độ nhập cư[62]. "Dân số càng cao tuổi, càng có nhiều người được hưởng phúc lợi, chúng tôi cần chăm sóc sức khỏe nhiều hơn và có một cơ sở nhỏ hơn để trả thuế", Ian Harper thuộc Trường Kinh doanh Melbourne đã phát biểu thế với ABC News (Úc)[63]. Trong khi chính phủ đã thu hẹp kế hoạch tăng tuổi nghỉ hưu, cắt giảm lương hưu và tăng thuế do sự phản đối của công chúng, áp lực nhân khẩu học vẫn tiếp tục gia tăng khi hiệu ứng đệm của nhập cư đang mất dần[62]. Người Úc đến tuổi vào đầu thế kỷ 21 không muốn có con so với người thế hệ trước vì lý do kinh tế: nợ sinh viên cao hơn, nhà ở đắt đỏ và tăng trưởng thu nhập âm.[63]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thế hệ Z http://www.theaustralian.com.au/news/world/the-tim... http://www.collinsdictionary.com/word-lovers-blog/... http://genhq.com/wp-content/uploads/2016/01/iGen-G... http://jasondorsey.com/tedx-talk-igen-gen-z/ http://www.jwt.com/blog/consumer_insights/meet-gen... http://usatoday30.usatoday.com/money/advertising/s... http://usatoday30.usatoday.com/news/opinion/forum/... http://education.cu-portland.edu/blog/tech-ed/shou... http://www.northeastern.edu/news/2014/11/generatio... http://fr.slideshare.net/sparksandhoney/generation...